Lịch sử Rhodes

Thời kỳ cổ đại

Bản đồ lịch sử của Rhodes, Piri Reis vẽ

Hòn đảo đã có người định cư thời thời đại đồ đá mới, mặc dù chỉ còn lại ít dấu tích của nền văn hóa này. Vào thế kỷ 16 TCN, những người Minoan đã đến Rhodes. Thần thoại Hy Lạp sau đó đã gọi giống người đảo Rhodes là Telchines, và liên hệ đảo Rhodes với Danaus; đảo thỉnh thoảng được gọi với biệt danh Telchinis. Vào thế kỷ 15 TCN, những người Hy Lạp Mycenaea đã xâm chiếm đảo. Sau sự suy sụp của thời đại đồ đồng, tiếp xúc bên ngoài đầu tiên khi phục hồi là với đảo Síp.[12] Vào thế kỷ 8 TCN, các khu định cư trên đảo bắt đầu hình thành, những người Dorian đến và dựng nên ba thành phố quan trọng là Lindos, IalyssosKameiros, cùng với Kos, CnidusHalicarnassus (trên đại lục) tạo thành cái gọi là Hexapolis Dorian (tiếng Hy Lạp nghĩa là sáu thành phố).

Trước khi tiến hành các hoạt động khảo cổ học, thần thoại được dùng để để lấp đầy các khoảng trống trong các ghi chép lịch sử. Trong tụng ca của Pindar, hòn đảo được nói là sinh ra nhờ sự kết hợp của thần mặt trời Helios và nữ thần Rhode, và các thành phố được đặt tên theo ba người con của họ. Rhoda là một loài dâm bụt hồng bản địa của đảo. Diodorus Siculus đã nói thêm rằng Actis, một trong số những người con trai của Helios và Rhode, đã đi đến Ai Cập. Ông cho xây dựng thành phố Heliopolis và dạy những người Ai Cập về khoa học chiêm tinh.[13]

Trong nửa sau của thế kỷ 8, thánh đường Athena đã nhận được quá tế lễ biểu thị cho sự tiếp xúc giữa các nền văn hóa: các ngà voi nhỏ đến từ Cận Đông và các đồ vật bằng đồng tới từ Syria. Tại Kameiros ở bờ biển tây bắc, có một đi tích từ thời kỳ đồ đồng, tại đó có một ngôi đền đã được xây dựng nên từ thế kỷ 8, gây chú ý với các bức tượng ngà voi được chạm khắc.

Vệ thành LindosDi chỉ Kameiros

Những người Ba Tư đã xâm lược và chiếm đóng hòn đảo, song họ lại bị quân Athens đánh bại vào năm 478 TCN. Các thành phố gia nhập liên minh Athens. Khi Chiến tranh Peloponnesus nổ ra vào năm 431 TCN, Rhodes vẫn duy trì tính trung lập tương đối, mặc dù đảo là một thành viên của liên minh. Cuộc chiến kéo dài cho đến năm 404 TCN, song vào lúc này Rhodes đã rút hoàn toàn khỏi xung đột và quyết định đi theo con đường riêng của mình.

Năm 408 TCN, các thành phố thống nhất thành một lãnh thổ. Họ xây dựng nên thành phố Rhodes, một kinh thành mới ở cực bắc của hòn đảo. Cách bố trí cân đối của thành phố là nhờ sự giám sát của kiến trúc sư Athens Hippodamus. Chiến tranh Peloponnesus đã làm suy yếu toàn bộ nền văn hóa Hy Lạp và mở đường cho các cuộc xâm lược. Năm 357 TCN, hòn đảo bị vua Mausolus của Caria chinh phục, và sau đó rơi vào tay người Ba Tư vào năm 340 TCN. Sự cai trị của họ cũng không kéo dài. Để trợ giúp cho công dân của mình, Rhodes trở thành một phần của đế quốc do Alexandros Đại đế gây dựng nên vào năm 332 TCN, sau khi ông đánh bại người Ba Tư.

Sau cái chết của Alexandros, các tướng lĩnh của ông đã tranh giành quyền kiểm soát đế quốc. Ba người: Ptolemaios, Seleukos, và Antigonos, đã thành công trong việc phân chia vương quốc với nhau. Rhodes đã hình thành nên các quan hệ thương mại và văn hóa mạnh mẽ[14] với nhà Ptolemaios ở Alexandria, và cùng thành lập liên minh Rhodes-Ai Cập, thế lực đã kiểm soát hoạt thộng thương mại khắp Aegea trong thế kỷ 3 TCN.

Thành phố đã phát triển thành một trung tâm hàng hải, thương mại và văn hóa; đồng tiền của đảo được lưu hành khắp mọi nơi tại Địa Trung Hải. Các trường phái nổi tiếng về triết học, khoa học, văn học và thuật hùng biện chia sẻ những người xuất sắc với Alexandria: nhà hùng biện học người Athens Aeschines, ông từng lập nên một trường phái tại Rhodes; Apollonios của Rhodes; quan sát và làm công việc của một nhà thiên văn học HipparchusGeminus, nhà hùng biện Dionysios Trax. Các trường phái điêu khắc phát triển một cách phong phú, phong cách ấn tượng và có thể được mô tả là " Baroque thời Hy Lạp hóa".

Năm 305 TCN, Antigonos chỉ đạo con trai mình là Demetrios, bao vây Rhodes trong một nỗ lực nhằm phá vỡ liên minh giữa hòn đảo và Ai Cập. Demetrios đã cho tạo ra các máy công thành lớn, bao gồm một phiến gỗ công thành 180 ft (55 m) và một tháp công thành mang tên Helepolis có trọng lượng 360.000 pound (163.293 kg). Mặc dù vậy, vào năm 304 TCN, tức chỉ sau đó một năm, ông đã nhượng bộ và ký kết một thỏa thuận hòa bình, để lại phía sau một lượng lớn các thiết bị quân sự. Người Rhodes đã bán các thiết bị này và dùng tiền dựng nên bức tượng thần mặt trời của họ, Helios, bức tượng được gọi là Tượng thần Mặt Trời ở Rhodes.

Năm 164 TCN, Rhodes đã ký kết một hiệp ước với La Mã. Hòn đảo đã trở thành một trung tâm giáo dục cho các gia đình quý tộc La Mã, và dược đặc biệt chú ý với các giáo viên về thuật hùng biện, như Hermagoras và tác giả khuyết danh của Rhetorica ad Herennium. Đầu tiên, nhà nước này lã một đồng minh quan trọng của La Mã và được hưởng nhiều đặc quyền, nhưng sau này, những điều đó đã mất đi theo ý đồ chính trị của La Mã. Cassius cuối cùng đã xâm lược hòn đảo và cướp phá thành phố.

Tranh khắc gỗ miêu tả thành phố Rhodes của Đông La Mã, Hartmann Schedel (1493)Súng cối của các Hiệp sĩ Thánh Gioan của Jerusalem (Hiệp sĩ Cứu tế), Rhodes, 1480–1500, đạn súng 260 lb (118 kg).

Vào thế kỷ 1 TCN, Hoàng đế Tiberius đã có một thời gian ngắn sống lưu vong tại Rhodes. Thánh Phaolô đã mang Kitô giáo đến với người dân trên đảo. Rhodes đã đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ 3. Năm 395, thời kỳ cai trị lâu dài của đế quốc Đông La Mã đã bắt đầu tại Rhodes, khi nửa phía đông của đế quốc La Mã dần dần Hy Lạp hóa hơn.

Từ sau năm 600 SCN, ảnh hưởng của đảo đối với hàng hải đã được biểu thị trong bộ sưu tập luật hàng hải được gọi là "Luật Biển Rhodes" (Nomos Rhodion Nautikos), áp dụng khắp Địa Trung Hải và sử dụng giờ Đông La Mã.

Rhodes bị đội quân Hồi giáo của Muawiyah I đánh chiếm vào năm 672. Vào khoảng năm 1090, Đảo bị đội quân Hồi giáo của Vương triều Seljuk chiếm giữ, không lâu sau trận Manzikert.[15] Rhodes được Hoàng đế Đông La Mã Alexius I Comnenus tái chiếm trong Cuộc thập tự chinh thứ nhất.

Thời kỳ Trung Cổ

Năm 1309, thời kỳ Đông La Mã kết thúc khi hòn đảo bị các lực lượng Hiệp sĩ Cứu tế chiếm đóng. Dưới sự cai trị của thế lực mới với tên gọi "Hiệp sĩ Rhodes", thành phố được tái xây dựng theo mô hình của một thành lý tưởng vào thời Trung Cổ tại châu Âu.

Các bức tường vững chắc mà các Hiệp sĩ đã xây dựng đã cưỡng lại các cuộc tấn công của Sultan Ai Cập năm 1444, và của Mehmed II vào năm 1480. Tuy nhiên, Rhodes cuối cùng đã rơi vào tay một đội quân lớn của Suleiman Đại đế vào tháng 12 năm 1522, một thời gian dài sau khi phần còn lại của đế quốc Đông La Mã bị mất. Một vài Hiệp sĩ còn sống sót được phép rút đến Vương quốc Sicilia. Các Hiệp sĩ sau đó đã di chuyển căn cứ hoạt động của họ tới Malta. Hòn đảo Rhodes thuộc quyền kiểm soát của đế chế Ottoman trong gần bốn thế kỷ.

Lịch sử hiện đại

Hòn đảo có nhiều dân tộc có nguồn gốc từ các quốc gia xung quanh, bao gồm cả người Do Thái. Dưới sự cai trị của đế chế Ottoman, tình hình trên đảo khá tốt, nhưng đôi khi cũng phát sinh các phân biệt đối xử và sự cố chấp. Tháng 2 năm 1840, người Do Thái tại Rhodes đã bị kết tội sai về việc giết theo nghi lễ một cậu bé Thiên Chúa giáo. Điều này dẫn đến đổ máu chống lại người Do Thái.

Năm 1912, Ý đã chiếm Rhodes từ tay người Thổ. Dân cư trên đảo do vậy có thể phớt lờ các sự kiện liên quan đến "Trao đổi dân cư thiểu số" giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Theo Hiệp ước Lausanne, hòn đảo cùng với các phần còn lại của Dodecanese chính thức được trao cho Ý. Đảo trở thành phần lãnh thổ cốt lõi của Isole Italiane dell'Egeo.

Sau Thỏa thuận đình chiến giữa Ý và các lực lượng Đồng Minh vào ngày 8 tháng 12 năm 1943, người Anh đã cố gắng lôi kéo quân Ý đồn trú tại Rhodes. Điều này đã được quân Đức dự đoán], và họ đã thành công trong việc chiếm đảo. Trong một khía cạnh, sự chiếm đóng đảo của Đức đã khiến cho người Anh thất bại trong chiến dịch Dodecanese sau đó.

Vào ngày 19 tháng 7 năm 1944, Gestapo đã gom gần 2.000 người Do Thái trên đảo để giửi đến các trại hủy diệt. Lãnh sự Thổ Nhĩ Kỳ Selahattin Ülkümen đã gặp nguy cơ đáng kể đối với bản thân và gia đình khi cứu giúp 42 gia đình người Do Thái, tổng cộng 200 người, họ là công dân Thổ Nhĩ Kỳ hoặc là thành viên của gia đình công dân Thổ Nhĩ Kỳ.

Năm 1947, cùng với các hòn đảo khác của Dodecanese, Rhodes thống nhất vào Hy Lạp.

Năm 1949, tại Rhodes đã diễn ra cuộc đàm phán giữa IsraelAi Cập, Jordan, Liban, và Syria, kết thúc với Hiệp định đình chiến 1949.